Kỹ năng, phương pháp giới thiệu nghị quyết của Đảng
Kỹ năng, phương pháp truyền đạt là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần giúp cho một buổi tuyên truyền miệng đạt hiệu quả, đạt mục đích tuyên truyền. BTGTU, xin trân trọng giới thiệu nội dung Kỹ năng, phương pháp giới thiệu nghị quyết của Đảng. Bản word tải về ở cuối bài.
Như phần Kỹ năng xây dựng Đề cương giới thiệu Nghị quyết của Đảng đã nêu, Nghị quyết của Đảng được xây dựng thường có 4 phần lớn là:
Phần 1: Đánh giá thực trạng tình hình (Tình hình và nguyên nhân)
Trong phần này, nghị quyết thường đề cập đến thực trạng của vấn đề được đưa ra thảo luận và thông qua, bao gồm những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, hạn chế, nguyên nhân (khách quan và chủ quan) của các thành tựu và yếu kém.
Đối với các nghị quyết đại hội hoặc nghị quyết về một vấn đề đã thực hiện được trong một thời gian dài, có thể có phần bài học kinh nghiệm.
Phần 2: Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo (Mục tiêu, phương châm)
Trong phần này, Nghị quyết xác định Mục tiêu cần đạt được trong việc giải quyết vấn đề (có mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài); quan điểm chỉ đạo khi giải quyết vấn đề đó.
Phần 3: Chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp (Giải pháp)
Trong phần này, nghị quyết thường trình bày các chủ trương, giải pháp lớn, gắn nhiệm vụ với giải pháp, hoặc đi thẳng vào các nhóm/các giải pháp thực hiện.
Phần 4: Tổ chức thực hiện
Trong phần này, cơ quan ban hành Nghị quyết giao nhiệm vụ cho các tổ chức, cá nhân để thực hiện Nghị quyết, ấn định thời gian, cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, tổng hợp báo cáo tiến độ và kết quả về cấp ban hành Nghị quyết.
Trước khi trình bày kỹ năng, phương pháp giới thiệu Nghị quyết của Đảng, chúng ta cần thống nhất về mặt nhận thức về mục tiêu, nhiệm vụ của việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng:
Một là, nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng là nhiệm vụ chính trị của các cấp uỷ, tổ chức đảng nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Đó chính là thực hiện nhiệm vụ tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Công tác tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng… nêu cao trách nhiệm của báo cáo viên, người đứng đầu cấp uỷ trong báo cáo truyền đạt Nghị quyết, cũng như cán bộ, đảng viên trong học tập Nghị quyết, đặc biệt là sự nêu gương của cán bộ chủ chốt các cấp”.
Hai là, nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết của Đảng là sinh hoạt chính trị quan trọng, góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, củng cố và tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, củng cố niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là, nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết của Đảng góp phần động viên tư tưởng, khơi dậy và phát huy tinh thần tích cực, tự giác cách mạng của nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng.
Bốn là, nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng góp phần tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; uốn nắn những nhận thức lệch lạc; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ trên, việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng cần có sự đổi mới một cách đồng bộ, với yêu cầu: chất lượng, thiết thực, hiệu quả.
I. NỘI DUNG MỘT BÀI GIỚI THIỆU NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG
Mỗi bài giới thiệu Nghị quyết của Đảng cần đảm bảo trình bày đủ các nội dung cơ bản. Tùy thuộc Nghị quyết, đối tượng người nghe, Báo cáo viên có thể lựa chọn những nội dung để nhấn mạnh, phân tích sâu, có nhiều ví dụ, liên hệ thực tiễn.
1. Phần giới thiệu chung về Nghị quyết
a) Về đối tượng của Nghị quyết
Các nghị quyết của Trung ương có thể chia thành 02 loại:
- Nghị quyết tổng hợp như Nghị quyết Đại hội, Cương lĩnh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội…;
- Nghị quyết chuyên đề như Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XII) về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; hoặc Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.
Nghị quyết tổng hợp bàn về nhiều đối tượng khác nhau, trong khi Nghị quyết chuyên đề chỉ bàn về một đối tượng. Tuy nhiên, sự phân biệt này cũng chỉ mang tính tương đối vì một đối tượng có thể phân tích thành nhiều đối tượng nhỏ hơn; ngược lại, nhiều đối tượng có thể quy về một đối tượng lớn hơn.
Khi giới thiệu Nghị quyết, cần giới thiệu cho người nghe về đối tượng của Nghị quyết.
Ví dụ: Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XII) về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” thì đối tượng là “đội ngũ cán bộ các cấp”.
“Đây là Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về công tác cán bộ, nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất trong nhiệm kỳ mà Đại hội XII của Đảng đề ra” – Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương giới thiệu Nghị quyết.
Trong phần này, Báo cáo viên cần giới thiệu các Nghị quyết/Chiến lược về đối tượng mà Đảng đã ban hành từ trước tới nay.
Ví dụ: “... qua 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp đã trưởng thành, phát triển về nhiều mặt...”.
b) Sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc ban hành Nghị quyết (Lý do ban hành Nghị quyết)
Mục tiêu của mục này là thỏa mãn câu hỏi của người học: Tại sao Nghị quyết lại được ban hành, nhất là vào thời điểm đó; Đảng ban hành Nghị quyết đó nhằm mục đích gì?... Tại sao đã có các Nghị quyết về đối tượng mà Nghị quyết này vẫn được xây dựng và ban hành (nếu có)?
Bất kỳ nghị quyết nào được ban hành cũng xuất phát từ những lý do, yêu cầu nhất định, nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể và do đó có ý nghĩa và tầm quan trọng nhất định. Các vấn đề về sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc ban hành Nghị quyết đều có thể quy về một vấn đề; sự phân biệt chỉ mang tính tương đối. Vì vậy, ở đây chỉ giới thiệu về sự cần thiết.
Sự cần thiết của một Nghị quyết thường xuất phát từ các trường hợp sau:
Thứ nhất, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ hoặc yêu cầu, nhiệm vụ cấp trên giao.
Ví dụ: Nghị quyết Trung ương 6 (khoá XII) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”: “Đây là Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về công tác cán bộ, nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất trong nhiệm kỳ mà Đại hội XII của Đảng đề ra”.
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò của đối tượng.
Bất kỳ Nghị quyết nào cũng phải hướng đến đối tượng nhất định và đối tượng đó phải có vai trò, vị trí nhất định mà Đảng quan tâm. Chỉ những đối tượng như thế mới được Đảng hướng tới để ban hành nghị quyết nhằm tăng cường vai trò của đối tượng đó.
Ví dụ: “Thứ nhất, cán bộ và công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của cách mạng và sự phát triển của đất nước”; “Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ “then chốt” thì công tác cán bộ là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”.”
Thứ ba, xuất phát từ trạng thái hiện tại của đối tượng.
Mỗi đối tượng luôn bao gồm các yếu tố khác nhau. Trong quá trình vận động của mình, có những yếu tố phát triển mạnh lên, trong khi lại có những yếu tố suy giảm vị trí, vai trò. Tại thời điểm nhất định, có những yếu tố đã phát triển cần thúc đẩy cho phát triển mạnh hơn, trong khi nhiều yếu tố khác suy giảm cần ngăn chặn đà suy giảm hoặc thúc đẩy chúng phát triển trở lại. Đó chính là một trong những yêu cầu phải ban hành Nghị quyết.
Ví dụ: “Thứ ba, qua 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp đã trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay Chiến lược cán bộ có một số nội dung không còn phù hợp, cần được điều chỉnh, bổ sung và phát triển để đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ mới. Đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, khuyết điểm và bất cập, trong đó có những khuyết điểm, yếu kém kéo dài, nhưng chậm được khắc phục, đổi mới như:...”.
Thứ tư, xuất phát từ sự thay đổi điều kiện tồn tại và phát triển của đối tượng.
Mọi sự vật, hiện tượng đều vận động trong môi trường, điều kiện nhất định và đối tượng của một Nghị quyết cũng vậy. Khi môi trường, điều kiện có sự thay đổi mạnh ảnh hưởng tới đối tượng. Trong điều kiện đó, cần có sự điều chỉnh các yếu tố của đối tượng cho phù hợp, thích hợp với điều kiện mới. Đây cũng là một trong những lý do thường gặp khi ban hành Nghị quyết.
Ví dụ: “Thứ tư, sau hơn 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta đang đứng trước sự chuyển giao thế hệ lãnh đạo, từ lớp cán bộ được rèn luyện, thử thách trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và các nước xã hội chủ nghĩa; sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, ở nhiều nước có các thể chế chính trị khác nhau”.
Trên đây chỉ là những lý do cơ bản. Các lý do này có thể được diễn đạt theo những cách khác nhau hoặc tách ra nhiều hơn hoặc gộp vào ít hơn. Ngoài ra, cũng có thể có các lý do khác.
c) Quá trình xây dựng Nghị quyết, phạm vi, giới hạn của Nghị quyết
Trước khi giới thiệu nội dung cơ bản của Nghị quyết, cần phải giới thiệu quá trình xây dựng Nghị quyết để tạo niềm tin vào những đánh giá, những luận điểm cũng như giải pháp mà Nghị quyết đưa ra.
Ví dụ: Giới thiệu Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII (NQ 18-NQ/TW): “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Báo cáo viên thông tin: “Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương, Đề án được xác định là “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện Đề án, Bộ Chính trị nhận thấy phạm vi của Đề án rất rộng, bao gồm cả phương thức lãnh đạo và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Hiện nay, do tình hình thay đổi, cần phải tiếp tục sắp xếp tổ chúc bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, sau khi xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, Bộ Chính trị thấy cần phải thu hẹp phạm vi của Đề án và chỉ tập trung vào một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”.
Hoặc: “Về Nhiệm vụ, giải pháp cụ thể: Hầu hết các ý kiến đều nhất trí với các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đã nêu trong Đề án. Một số ý kiến đề nghị xác định rõ, cụ thể hơn những nội dung cần thí điểm và thực hiện ở cả cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã với tỷ lệ hợp lý; đề nghị nhất thể hóa chức danh trưởng ban tuyên giáo cấp ủy huyện đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện. Bộ Chính trị tiếp thu ý kiến của Trung ương, đã chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung vào Đề án và Nghị quyết đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng đề án, kế hoạch, hướng dẫn thực hiện”.
- Mỗi đối tượng mà Nghị quyết hướng tới thường có nhiều mặt, nhiều yếu tố khác nhau, đặt ra nhiều vấn đề khác nhau. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể cũng như yêu cầu của thực tiễn, tính khả thi…, Nghị quyết có thể giới hạn phạm vi vấn đề ban hành Nghị quyết. Khi giới thiệu Nghị quyết, Báo cáo viên cũng cần giới thiệu cho người nghe về phạm vi và giới hạn của Nghị quyết.
Ví dụ: “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị...” chứ không phải là “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị...”
d) Kết cấu của Nghị quyết
Trước khi giới thiệu nội dung của Nghị quyết, cần giới thiệu sơ lược về kết cấu của Nghị quyết, các phần cơ bản của Nghị quyết để người nghe hình dung sơ bộ về Nghị quyết, từ đó chuẩn bị tâm thế tiếp thu nội dung chi tiết của các phần.
Trong giới thiệu kết cấu của Nghị quyết, chỉ nêu ngắn gọn từng phần cơ bản, tránh sa đà vào trình bày kỹ từng phần sẽ trùng với phần trình bày bên dưới.
2. Nội dung cơ bản của Nghị quyết
a) Khái niệm, vị trí, vai trò của đối tượng của Nghị quyết
- Có thể nói, mọi Nghị quyết đều là một “văn bản pháp lý” (của Đảng), do đó, đều có đối tượng điều chỉnh của mình.
- Trong văn bản của Nghị quyết có thể không trình bày trực tiếp định nghĩa hay khái niệm về đối tượng điều chỉnh, nhưng khi giới thiệu Nghị quyết, Báo cáo viên luôn phải trình bày để xác định đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết. Cần trình bày về vị trí, vai trò của đối tượng để người nghe, người học hiểu rõ hơn tại sao Nghị quyết lại được ban hành.
Ví dụ: NQ TW 7 (khóa XII): Cán bộ cấp chiến lược là những cán bộ thuộc diện Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, hiện nay dao động khoảng trên 600 đồng chí.
Phần này chỉ trình bày ngắn gọn và chú ý tránh để trùng lắp với nội dung đã trình bày ở phần giới thiệu chung về Nghị quyết.
b) Thực trạng của đối tượng
- Thực trạng của hoạt động hay vận động của đối tượng là một trong những nội dung trọng tâm của Nghị quyết. Vì vậy, nội dung này phải trình bày kỹ để người nghe, người học hiểu được cơ sở thực tiễn của mục tiêu, quan điểm hay phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết nêu ra.
Thực trạng đối tượng mà Nghị quyết điều chỉnh bao giờ cũng có hai mặt: Ưu điểm (những yếu tố, mặt tích cực) và hạn chế, bất cập…(những yếu tố, mặt tiêu cực). Cần trình bày rõ hai mặt này, tập trung vào các yếu tố cơ bản, nhất là những yếu tố mà Nghị quyết sẽ tập trung điều chỉnh.
Ví dụ: NQ TW 7 (khóa XII): (Ưu điểm) đội ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên…; nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện; công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng…
(Hạn chế) Tuy nhiên, nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi... Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực…
- Đặc biệt, Báo cáo viên cần chú ý trình bày nguyên nhân của các mặt ưu điểm cũng như hạn chế, bất cập. Hiểu rõ nguyên nhân rất quan trọng vì, từ các nguyên nhân này, Nghị quyết đề ra các giải pháp để khắc phục hạn chế, yếu kém.
Nguyên nhân có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Cách xử lý đối với nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan khác nhau. Vì vậy, Báo cáo viên cần trình bày rõ nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan để người nghe hiểu đươc cách điều chỉnh của Nghị quyết.
Tuy nhiên, hiện nay cách hiểu về khái niệm “chủ quan” và “khách quan” còn chưa thống nhất, cho nên trong trình bày, Báo cáo viên cần nói rõ phân định theo cách hiểu nào để có cách xử lý thích hợp.
c) Quan điểm, mục tiêu ban hành Nghị quyết
Căn cứ vào thực trạng, bao gồm các mặt được và hạn chế, bất cập; nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó, từ đó, Nghị quyết đưa ra quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp.
Quan điểm là những tư tưởng chỉ đạo để xây dựng Nghị quyết, đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp và chỉ đạo xử lý các tình huống trong quá trình thực hiện Nghị quyết…
Mỗi Nghị quyết có cách hiểu riêng về quan điểm. Có trường hợp đồng nhất quan điểm với tôn chỉ, phương châm hay bài học… Phụ thuộc vào cách hiểu hay quy định về quan điểm mà mục “quan điểm” được đặt ở vị trí nào.
Trong giới thiệu nội dung Nghị quyết, giới thiệu quan điểm rất quan trọng vì đó là những tư tưởng xuyên suốt cần chú ý. Cũng có nhiều nghị quyết không nêu quan điểm. Đó là trường hợp quan điểm “ẩn”, không nhất thiết phải trình bày.
- Do tính chất của mình, Nghị quyết có thể có thể có mục tiêu hoặc không có mục tiêu, cũng có trường hợp mục tiêu chỉ mang tính phụ trợ cho những nội dung sau.
- Mục tiêu là trạng thái của đối tượng cần đạt được sau một thời gian nhất định. Khác với mục đích (chỉ mang tính định tính), mục tiêu bao giờ cũng có định lượng.
Việc đề ra mục tiêu rất quan trọng vì nó làm cho việc thực hiện Nghị quyết thiết thực hơn, khả thi hơn, hiệu quả hơn và tạo ra cố gắng đúng mức nếu mục tiêu đặt ra hợp lý. Mục tiêu càng cụ thể thì càng tốt.
Việc trình bày rõ mục tiêu, cơ sở lý luận và thực tiễn của mục tiêu rất cần thiết, giúp người nghe củng cố niềm tin vào tính khả thi của Nghị quyết, hiểu đúng về Nghị quyết, đặc biết, rất bổ ích khi vận dụng Nghị quyết vào cuộc sống.
Ví dụ: NQ TW 7 (khóa XII): Đến năm 2030, Nghị quyết đề ra 02 mục tiêu lớn rất quan trọng:
(1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng.
(2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là:
+ Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 - 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 - 20% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 - 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; từ 20 - 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của quân đội, công an: Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ Đảng, nhân dân; từ 20 - 30% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
d) Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp
Phương hướng, nhiệm vụ hay giải pháp bao giờ cũng là nội dung quan trọng nhất của một Nghị quyết, là cốt lõi, là linh hồn của Nghị quyết. Đây chính là những điều chỉnh cụ thể mà Nghị quyết đề ra.
Khi giới thiệu nội dung này, Báo cáo viên cần liên hệ chặt chẽ, tạo thành chuỗi lôgíc với phần thực trạng, nguyên nhân và mục tiêu.
Trong trình bày, Báo cáo viên cần nhấn mạnh đến các phương hướng, nhiệm vụ hoặc giải pháp có tính cơ bản, chiến lược hay đột phá.
Ví dụ: Nghị quyết TW 7 (khóa XII) xác định hai trọng tâm và năm đột phá sau:
- Hai trọng tâm là: (1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. (2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của cán bộ và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
- Năm đột phá là: (1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương. (2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ, thay thế kịp thời những người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không bảo đảm sức khỏe, có sai phạm; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền. (3) Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện. (4) Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để cạnh tranh lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm. (5) Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
d) Tổ chức thực hiện Nghị quyết
Trước đây, Nghị quyết thường không có mục này. Trong thời gian gần đây, trong các Nghị quyết bao giờ cũng có mục “Tổ chức thực hiện” và tầm quan trọng của mục này ngày càng được nâng lên hơn.
Tổ chức thực hiện là chỉ ra nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan, đơn vị trong thể chế hóa, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết Nghị quyết.
Trong trình bày phần này, Báo cáo viên nên liên hệ với các công việc cụ thể mà người nghe cần làm sau khi học Nghị quyết.
3. Một số điểm lưu ý trong giới thiệu Nghị quyết của Đảng
(1) Kết hợp giới thiệu Nghị quyết với uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với các quan điểm sai trái, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng:
Tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết là góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, hình thành, củng cố niềm tin, giáo dục lý luận, đạo đức, lối sống đối với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết còn góp phần uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Phát biểu khai mạc Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Đồng chí Võ Văn Thưởng, Thường trực Ban Bí thư yêu cầu: “Cần nhận thức sâu sắc nghiên cứu học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội XIII của Đảng… phải được thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản, khoa học…, tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc...”; “… góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc”.
(2) Tập trung phân tích sâu, làm rõ những quan điểm, nội dung cốt lõi, những chủ trương mới trong Nghị quyết; liên hệ sâu sát thực tiễn để thuyết phục người nghe:
Nội dung Nghị quyết thường rất dài, phạm vi đề cập rộng, trong khi đó, thời lượng buổi nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết có hạn, Báo cáo viên không thể giới thiệu đầy đủ, tuần tự tất cả nội dung của Nghị quyết.
Hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu phương thức: “… kết hợp tự nghiên cứu với nghe phổ biến, quán triệt”.
Để đảm bảo thời gian và hiệu quả, Báo cáo viên phải lựa chọn những điểm mới, cốt lõi của Nghị quyết để giới thiệu, phân tích sâu, làm rõ những nội dung quan trọng này, tránh dàn trải.
Cùng với đó, để bài giới thiệu thêm sinh động, hấp dẫn người nghe, và đặc biệt là để Nghị quyết đi vào được cuộc sống, biến Nghị quyết “thành hiện thực sinh động trong thực tế, thành của cải vật chất, mang lại giàu có và hạnh phúc cho nhân dân”, Báo cáo viên cần liên hệ sâu sát thực tiễn, có nhiều ví dụ minh họa, chứng minh tính đúng đắn, khoa học của Nghị quyết Đảng.
Báo cáo viên phài đào sâu suy nghĩ, tìm tòi tư liệu, số liệu sống động để bài giới thiệu Nghị quyết thuyết phục được người nghe.
Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Công tác tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng… kết hợp tự nghiên cứu với nghe phổ biến, quán triệt; nhấn mạnh, làm rõ những vấn đề mới, cốt lõi; nêu cao trách nhiệm của báo cáo viên, người đứng đầu cấp uỷ trong báo cáo truyền đạt Nghị quyết, cũng như cán bộ, đảng viên trong học tập Nghị quyết, đặc biệt là sự nêu gương của cán bộ chủ chốt các cấp”.
“Đội ngũ báo cáo viên phải là những người nghiên cứu sâu, nắm vững Nghị quyết, có tư duy, quan điểm đúng đắn, có bản lĩnh, tâm huyết và trách nhiệm, có kinh nghiệm, nghiệp vụ, kỹ năng, bảo đảm truyền đạt trung thực, chính xác, sinh động nội dung Nghị quyết, phù hợp với từng đối tượng cụ thể”.
(3) Chú trọng đối thoại, giải đáp các câu hỏi, thắc mắc, giải tỏa boăn khoăn của người nghe:
Nội dung nghiên cứu, học tập, quán triệt và tuyên truyền Nghị quyết phải đáp ứng được nhu cầu thông tin của người nghe.
Có thể sử dụng phương pháp diễn dịch hoặc quy nạp để trình bày, khi trình bày một vấn đề nhất thiết phải trả lời được câu hỏi tại sao và thế nào?
Báo cáo viên cần kịp thời lý giải những băn khoăn, vướng mắc của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nội dung Nghị quyết.
Nhiều năm qua, việc giới thiệu nghị quyết của Đảng nhìn chung còn nặng về độc thoại, thông tin một chiều, chưa dành thời gian thỏa đáng để trao đổi, đối thoại, giải đáp những vấn đề bức xúc mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm. Việc học tập, quán triệt nghị quyết chỉ dừng lại ở việc giới thiệu; quá trình nghiên cứu, thảo luận, giải đáp thắc mắc thường bị bỏ qua do thời gian bố trí học tập ngắn, phương pháp tổ chức học tập không phù hợp, nhất là đảng viên ở nông thôn và các khu công nghiệp.
Các tin khác
- Bế mạc Hội thi Chung khảo Báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi toàn quốc (18/03/2022)
- Khai mạc Hội thi chung khảo toàn quốc báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi (17/03/2022)
- Đại biểu cùng các thí sinh Hội thi chung khảo toàn quốc báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi tham quan Bộ Tư lệnh Vùng 4 (17/03/2022)
- Khởi động Hội thi Chung khảo toàn quốc Báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi (21/02/2022)
- Bế mạc Hội thi Báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi toàn quốc khu vực III (30/12/2021)
- Khai mạc Hội thi Báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi toàn quốc năm 2021 khu vực III (28/12/2021)
- Tổng duyệt nội dung cho thí sinh tỉnh Long An tham gia Hội thi Báo cáo viên, Tuyên truyền viên giỏi năm 2021 khu vực phía Nam (25/12/2021)
- Hội thi Báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi khu vực III năm 2021 sẽ khai mạc vào ngày 27/12/2021 (18/12/2021)
- Chuyên đề thí sinh tham gia Hội thi Báo cáo viên, Tuyên truyền viên giỏi cấp tỉnh năm 2021 – Số 39 (22/11/2021)
- Chuyên đề thí sinh tham gia Hội thi Báo cáo viên, Tuyên truyền viên giỏi cấp tỉnh năm 2021 – Số 38 (22/11/2021)
- Kế hoạch tổ chức Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Tư, năm 2024
- Kế hoạch tổ chức Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Ba, năm 2023
- GIẢI BÁO CHÍ TOÀN QUỐC “BÁO CHÍ VỚI CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ” LẦN THỨ TƯ NHẬN TÁC PHẨM THAM DỰ ĐẾN NGÀY 31/8/2023
- Thông báo về việc nghỉ Tết và treo cờ Tổ quốc nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023
- Thông báo về việc nghỉ Tết và treo cờ Tổ quốc nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023
- Cuộc thi “Chung tay vì an toàn giao thông” năm 2022 diễn ra từ tháng 10/2022 đến tháng 12/2022
- Thông báo về việc nghỉ lễ và treo cờ Tổ quốc nhân kỷ niệm 77 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2022)
- Thông báo việc nghỉ lễ và treo cờ Tổ quốc Tết Dương lịch năm 2022
- Thông báo nghỉ Tết Dương lịch năm 2022 và treo cờ Tổ quốc
- Thông báo thể lệ cuộc tuyển chọn ảnh đẹp du lịch tỉnh năm 2021