Chủ điểm tuyên truyền

Kỷ niệm 81 năm Ngày Nam Kỳ khởi nghĩa (23/11/1940 - 23/11/2021) Khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940 trên địa bàn tỉnh Chợ Lớn-Tân An

08/11/2021 11:45:0PM
Màu chữ Cỡ chữ

Ngày 27 tháng 9 năm 1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, tháng 9 năm 1940, Xứ uỷ Nam kỳ tổ chức hội nghị tại làng Xuân Thới Đông, Hóc Môn. Hội nghị quyết định khởi nghĩa và đề ra nhiều công tác chuẩn bị như quốc kỳ nền đỏ sao vàng năm cánh, Sài Gòn-Gia Định là nơi chọn làm trọng điểm và là nơi phát động khởi nghĩa.

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp sụp đổ, Chính phủ phản động Daladier lên cầm quyền, giải tán Đảng Cộng sản Pháp, đàn áp những người dân chủ chống Pháp.

Ở Đông Dương, thực dân pháp ra mặt đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Các tù chính trị được ân xá năm 1936, nhiều Đảng viên Cộng sản và quần chúng cảm tình đã hoạt động thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939, đều bị bắt, 14 tờ báo Sài Gòn bị đóng cửa, Toàn quyền Ca-tơ-ru (Cattroux) trao nghị định giải tán các tổ chức quần chúng, đàn áp các phong trào cách mạng của quần chúng, các quyền tự do dân chủ tối thiểu mà nhân dân giành được qua đấu tranh nay bị xoá hết.

Về quân sự, chính quyền thuộc địa ban hành lệnh tổng động viên, bắt bớ hàng vạn lính thợ Đông Dương sang Pháp. Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách vơ vét sức người sức của ở Việt Nam vào việc phục vụ chiến tranh.

Trước tình hình thế giới và Đông Dương, Trung ương Đảng kịp thời chỉ đạo các cấp, các tổ chức nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, tránh bị tôn thất lớn bị địch khủng bố, dựa vào nông thôn để phát triển lực lượng cách mạng.

Tháng 11 năm 1939, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 được tổ chức họp tại làng Tân Thới Nhất (Bà Điểm) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, các đồng chí Phan Đăng Lưu, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Lê Duẩn… tham dự. Hội nghị đã xác định kẻ thù chủ yếu là chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc, xác định cuộc cách mạng Đông Dương lúc này là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị quyết định tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ, thành lập các tổ chức phản đế, hoạt động bí mật, bất hợp pháp. Hội nghị chủ trương đưa ngọn cờ độc lập dân tộc lên trên nhằm lôi kéo những phần tử tiến bộ. Tháng 3 năm 1940, Xứ ủy ra “Đề cương chuẩn bị bạo động” đã được phổ biến đến các cơ sở Đảng.

Tháng 6 năm 1940 nước Pháp bị phát xít Đức chiếm, phát xít Nhật nhân cơ hội đó, xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp ở Đông Dương đầu hàng Nhật, đồng thời ráo riết khủng bố, lùng bắt Đảng viên cộng sản. Nhiều đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương, Xứ uỷ bị sa vào tay giặc, như đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẫn bị bắt (17-1-1940), đồng chí Lê Hồng Phong (6-2-1940), Hà Huy Tập, Võ Văn Tần (21-4-2020). Ở tỉnh Chợ Lớn, nhiều cơ sở  Đảng bị khủng bố, nhiều Đảng viên hoạt động công khai phải rút vào hoạt động bí mật. Tại Tân An, nhiều đồng chí tỉnh uỷ bị lộ, bị bắt, một số phải tránh sang tỉnh khác hoặc chuyển vùng hoạt động.

Trước tình hình đó, tháng 7 năm 1940, Xứ uỷ Nam kỳ tổ chức hội nghị mở rộng tại xã Tân Hương, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, tham dự có 24 đại biểu. Hội nghị đã chủ trương khởi nghĩa, thông kế hoạch tiến hành và thành lập ban chỉ đạo khởi nghĩa các cấp, nhất trí cử đồng chí Phan Đăng Lưu ra bắc dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 và xin chỉ thị về chủ trương khởi nghĩa.

Ngày 27 tháng 9 năm 1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, tháng 9 năm 1940, Xứ uỷ Nam kỳ tổ chức hội nghị tại làng Xuân Thới Đông, Hóc Môn. Hội nghị quyết định khởi nghĩa và đề ra nhiều công tác chuẩn bị như quốc kỳ nền đỏ sao vàng năm cánh, Sài Gòn-Gia Định là nơi chọn làm trọng điểm và là nơi phát động khởi nghĩa, đồng chí Dương Công Nữ, Xứ ủy viên trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa tỉnh Chợ Lớn.

Ngày 20 tháng 11 năm 1940, Thường vụ Xứ ủy họp khẩn cấp hạ lệnh khởi nghĩa. Hiệu lệnh chung với các tỉnh: 0 giờ đêm 22 rạng sáng ngày 23 tháng 11 năm 1940 đèn Sài Gòn tắt hoặc “có tiếng súng nổ” thì đồng loạt hành động, đồng loạt khởi nghĩa vũ trang trên 21 tỉnh. Trong cùng tháng, tại làng Đình Bảng, Bắc Ninh, Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 7 diễn ra, chủ trương hoãn lại cuộc khởi nghĩa ở Nam kỳ. Tuy nhiên lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy đã xuống tới cơ sở. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ đã bùng nổ.

Tỉnh Chợ Lớn được Xứ ủy xác định là trọng điểm khởi nghĩa cùng với trung tâm Sài Gòn, Chợ Lớn, do đó Xứ ủy đã tăng cường nhiều đồng chí cốt cán về tập trung sức xây dựng tổ chức Đảng, lực lượng chính trị, võ trang, đến ngày khởi nghĩa, Đảng bộ Chợ lớn có 37 chi bộ, 160 đảng viên, nhiều quận ủy Đức Hòa, Trung Quận, Cần Giuộc được củng cố. Tỉnh Tân An có 21 chị bộ, 100 đảng viên, trong đó quận ủy Thủ Thừa hoạt động khá mạnh, các quận như quận Châu Thành, Mộc Hóa tuy không còn quận ủy do bị Pháp khủng bố nhưng vẫn có các chi bộ hoạt động và duy trì số lượng lớn quần chúng cảm tình Đảng, thành lập Ban Chỉ đạo khởi nghĩa cấp tỉnh và các quận. Cả hai tỉnh Chợ Lớn và Tân An tổ chức phân công lực lượng ở các địa bàn trọng yếu, bố trí giao thông liên lạc, rèn luyện võ thuật, vũ khí, in truyền đơn, lôi kéo những địa chủ tiến bộ, tập hợp quầng chúng vào các tổ chức phản đế của thanh niên, phụ nữ. Về công tác binh vận đã khẩn trương xúc tiến, ở Tân An đã vận động được một số lính dinh quận Thủ Thừa, lực lượng Bình Xuyên. Cả Tân An và Chợ Lớn đều bố trí lực lượng tiếp ứng cho thành phố, riêng Chợ Lớn theo chỉ đạo của Xứ ủy, vừa có nhiệm vụ nổi dậy giành chính quyền tại chỗ vừa phải tổ chức lực lượng tiếp ứng trung tâm thành phố, cùng với các tỉnh Gia Định, Tây Ninh, Biên Hòa, Thủ Dầu Một tạo thành những mũi nhọn tiến công vào nội thành. Do đó cả 4 quận của tỉnh Chợ Lớn (Trung Quận, Cần Đước, Cần Giuộc, Đức Hòa) đều được quán triệt nhiệm vụ tổ chức hai lực lượng để khởi nghĩa tại chỗ và chi viện thành phố.

Tuy nhiên kế hoạch khởi nghĩa đã bị địch phát hiện do gián điệp của địch đã chui vào tổ chức của ta. Địch đối phó ngay lập tức. Đồng chí Tạ Uyên, Bí thư Xứ ủy và một số đồng chí bị bắt ngay sau cuộc họp truyền đạt lệnh khởi nghĩa cho Thành ùy Sài Gòn ở số nhà 160 đường Đayốt chiều ngày 22-12-1940[1]. Đồng chí Phan Đăng Lưu, Nguyễn Như Hạnh (Bí thư Thành ủy Sài Gòn) cũng bị bắt. Giặc Pháp ra lệnh cắm trại và tước khí giới lính người Việt, đưa lính Âu-Phi gác ở nhiều nơi, cho xe chạy tuần tiễu suốt đêm ở thành phố. Cảnh sát, lính kín, được tập trung đi lùng xét, bắt ớ ở nhiều nơi. Kế hoạch lấy tiếng súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn vào lúc 24 giờ ngày 22-11-1940 làm súng lệnh không thành. Song tại hai tỉnh Chợ Lớn và Tân An cùng các tỉnh khác ở Nam bộ (20/21 tỉnh thành), cuộc khởi nghĩa vẫn tiến hành như dự định.

Ở Tân An, khởi nghĩa nổ ra vào đêm 22-11-1940. Tỉnh ủy Tân An đã triệu tập hội nghị bố trí cán bộ chia làm 2 vùng để hoạt động: Vùng nam do các đồng chí Trần Văn Đấu, Lưu Dự Châu, Phẩm Văn Giáo… phụ trách, vùng bắc lộ Đông Dương (Quôc lộ 1) do các đồng chí Trần Trung Tam, Nguyễn Văn Hoàng… phụ trách để hoạt động. Phụ trách đường dây liên lạc với Xứ ủy, Tỉnh ủy là đồng chí Lê Minh Xuân, Tỉnh ủy viên.

Tại quận Châu Thành, đêm 23-11-1940, quần chúng đã khởi nghĩa, ngã cây, phá cầu trên các con lộ Tân An-Tầm Vu, Kỳ Sơn-Tầm Vu, treo cờ đỏ búa liềm trên cây cao, treo biểu ngữ ở các làng Hiệp Thạnh, Vĩnh Công, Bình Quới. Đánh phá nhà việc của các xã An Vĩnh Ngãi, Hòa Phú, tịch thu vũ khí, thiêu hủy toàn bộ sổ bộ, giấy tờ, chủ yếu là hồ sơ an ninh và thuế. Ở các làng An Vĩnh Ngãi, Hòa Phú, Mỹ Tịnh An, Trung Hòa lực lượng khởi nghĩa làm chủ mấy ngày liền, trừng trị 1 tên ác ôn và cảnh cáo giáo dục hàng chục tên tề. Ngoài ra, chỉ huy một bộ phận nghĩa quan sang hiệp đồng khởi nghĩa ở các làng Tân Hương, Hòa Tịnh, Tân Lý Tây (tỉnh Mỹ Tho) và làm chủ được mấy ngày liền. Phía Tây bắc lộ Đông Dương, đã nổi trống mõ, lấy được ba súng hơi ở Lợi Bình Nhơn. Sau đó quân khởi nghĩa định tiến vào phối hợp với lực lượng bí mật trong thị xã Tân An để đánh chiếm thị xã nhưng không thành, vì các đồng chí phụ trách ở nơi này đều bị bắt trước khi hành động. Tính chung, trên địa bàn quận Châu Thành và tỉnh lị Tân An, cuộc khởi nghĩa đã huy động được nhân dân 9 làng nổi dậy ở các mức độ khác nhau, chiếm được 2 nhà việc, trừng trị một số tên ác ôn, thiêu hủy giấy tờ sổ sách, thu được một số súng, làm bọn địch hoang, rúng động[2].

Ở quận Thủ Thừa, theo kế hoạch, quận Thủ Thừa có 1 bộ phận trên 10 người tổ chức chi việc cho thành phố, ngoài số quân chi viện cho Sài Gòn, lực lượng còn lại của của cánh quân Vàm Cỏ Đông đã vây đồn Kinh Tắc, gọi hàng nhưng không có kết quả, nghĩa quân quay về đốt nhà việc xã Thạnh Lợi. Một lực lượng khác đã dùng mưu đánh chiếm đồn Trà Cú, bắt sống 6 lính, thu 6 súng, chiếm nhà việc các xã Long Ngãi Thuận, Tân Đông, Mỹ Lạc Thành. Ngày 24-11 nghĩa quân Vàm Cỏ Tây bắt xã trưởng, thu 1 súng, ở làng Quê Mỹ Thạnh, đội nghĩa quân phát động quần chúng, phá nhà việc, bắt hương sư và hương quản làng ra nhận tội trước nhân dân. Riêng kế hoạch đánh chiếm thị trấn không thực hiện được do trục trặc trong việc phối hợp các cánh quân.

Tại quận Mộc Hóa các đồng chí Nguyễn Thị Thập, Phạm Văn Kỳ bên tỉnh Mỹ Tho đã phối với các đồng chí đảng viên thuộc các làng Nhơn Ninh, Tân Hòa thuộc quận Mộc Hóa phát động quần chúng hai làng nổi dậy đánh mõ, đánh trống, thị ụy, khoàng 500 đồng bào kéo chiếm nhà việc, thiêu hủy số sách, tài liệu và truy lùng bọn tề điệp có nợ máu. Đồng chí Phạm Văn Kỳ chỉ huy nghĩa quân đột nhập các đồn điền của tên Chà lơ bông vùng kinh Bích, kinh Bùi, kinh Bằng Lăng cảnh cáo và buộc chúng trả lại đất cho đồng bào. Quần  chúng hai làng Nhơn Ninh và Tân Hòa còn được huy động phối hợp các nghĩa quân bên Mỹ Tho phát động khởi nghĩa ở Chợ Giữa (Vĩnh Kim), Long Định, Mỹ Phước Tây (Châu Thành-Mỹ Tho), Mỹ Thành, Thạnh Phú (Cai Lậy), Hậu Mỹ (Cái Bè), cuộc khởi nghĩa kéo dài trong 5 ngày[3]. Ở Tổng Thạnh Hòa Thượng quận Mộc Hóa, nhân dân các làng Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Hưng Điền nổi dậy, kéo đi uy hiếp, giáo dục bọn tề làng, trừng trị một số tên đã từng bị nhân dân cảnh cáo.

Ở tỉnh Chợ Lớn, quá 0 giờ ngày 23-11-1940, tín hiệu hành động không thấy xuất hiện, đèn Sài Gòn vẫn sáng và hoạt động đối phó của địch đã bắt đầu diễn ra, lực lượng khởi nghĩa biết rằng kế hoạch hành động đã bị lộ, những người chỉ huy liền ra lệnh phân tán và chuyển hướng sang phối hợp cùng với lực lượng tại chỗ tấn công các trụ sở tề ngụy ở địa phương.

Ở quận Đức Hòa, do hiệp đồng khởi nghĩa từ Sài Gòn không diễn ra theo kế hoạch nên việc cướp chính quyền quận Đức Hòa không diễn ra, do đó lực lượng khởi nghĩa đã phục kích ở Giồng Cám, giết Quản Nên và Bếp Nhung là 2 tên tay sai trung thành với giặc Pháp, thu 4 súng. Ở một số nơi như Mỹ Hạnh, Hựu Thạnh, thị trấn Đức Hòa, lực lượng nghĩa quân triển khai lực lượng bao vây bọn tề xã, cướp vũ khí.

Tại Trung Quận, hiệp đồng tác chiến đã không xảy ra nhưng cuộc khởi nghĩa tại chỗ diễn ra quyết liệt từ 0 giờ ngày 23-11-1940. Quần chúng khởi nghĩa đánh phá nhà việc và bót canh các xã An Thạnh, Long Phú, Phước Lợi, Tân Bửu, Mỹ Yên, bao vây, bắt nhiều tên tề ác, tước vũ khí. Cả Trung Quận có 10/15 làng thực hiện kế hoạch nổi dậy, lấy được 18 súng của tề và lính, treo cờ đỏ búa liềm và cờ đỏ sao vàng ở Long Phú, An Thạnh, Tân Bửu, trừng trị 14 tên tề.

 Có 13/15 làng ở Cần Đước đã nổi dậy, nghĩa quân đã ngả cây cản đường, treo cờ đỏ búa liềm, trương nhiều khẩu hiệu. Lực lượng khởi nghĩa các xã Phước Vân, Long Định, Long Cang chiếm nhà việc, đốt sổ bộ.

Tại Cần Giuộc, có 21/25 làng tiến hành khởi nghĩa cướp chính quyền. Lực lượng khởi nghĩa các xã Phước Lại, Long Đức Đông, Long Hậu Tây tiến hành đánh chiếm các nhà việc, đốt cháy 6 nhà hội, đốt phá cầu Rạch Đôi, cầu Ông Chuông, Cầu Rạch Dừa, tước súng bọn tề làng. Nhiều nơi quân khởi nghĩa rải truyền đơn, treo cờ mít tinh, cờ đỏ sao vàng, thị uy rầm rộ khí thế quần chúng rất mạnh làm địch hoang mang.

Đảng bộ tỉnh Chợ Lớn và tỉnh Tân An từ 23-11-1940 đến giữa năm 1941 đã lãnh đạo quần chúng nhân dân đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa với quy mô lớn nhất kể từ 1930. Tân An-Chợ Lớn trở thành 2 trong 9 tỉnh thành khởi nghĩa nổ ra sớm và mạnh nhất. Kết quả, riêng tỉnh Chợ Lớn có 53/66 làng có kế hoạch khởi nghĩa, trong đó 22 làng thực hiện được kế hoạch míttinh ở 15 địa điểm với quy mô hàng chục, hàng trăm quần chúng tham dự, treo cờ đỏ búa liềm, khẩu hiệu, rải truyền đơn; tiến công đồn bót 4 mục tiêu, trừng trị 21 tên tề ác; thu 34 súng, chiếm phá nhà việc, đốt sổ sách 19 vụ, phá cầu, ngăn lộ 11 điểm[4].

Tuy nhiên, trong tình thế chưa chín, tình huống cực kỳ khẩn cấp và phức tạp, kẻ thù đã huy động toàn lực lượng, phản kích mạnh mẽ gây tổn thất nặng cho Đảng bộ Nam kỳ nói chung, đảng bộ Chợ Lớn-Tân An nói riêng. Tại Chợ Lớn, theo tài liệu mật thám từ ngày 23-11 đến ngày 21-12-1943 riêng ở ven đô thị Chợ lớn chúng đã bắt 396 vụ. Tại Tân An, thực dân Pháp phản pháo, sáng 24-11, chúng đưa đại đội lính  Âu Phi và mã tà càn quét hai bên Vàm Cỏ Tây, đồng thời chúng tiến hành nhiều cuộc càn quét, truy lùng, khủng bố. Từ ngày 23-11 đến ngày tháng 12-1940 chúng đã bắt ở Tân  An 261 người, không kể số người chúng đã bắn chết tại chỗ, bắt rồi thả ra. Hầu hết cơ sở cách mạng từ tỉnh đến các làng của 2 tỉnh đều bị địch đánh tan rã.

Tuy không thành công, bên cạnh những kinh nghiệm đắt giá về vũ trang khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940 đã để lại giá trị tinh thần bất diệt. Trong cuộc khủng bố trắng tàn khốc của địch, những người cộng sản, những chiến sĩ yêu nước đã tỏ rõ ý chí bất khuất, niềm tin vào thắng lợi cuối cùng, để lại những tấm gương và niềm tin trong lòng nhân dân. Đó là những đồng chí lãnh đạo từ Trung ương đến Xứ ủy, từng gắn bó, từng sống chết với phong trào như Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến… cùng hàng trăm, hàng ngàn đảng viên, cơ sở cách mạng trung kiên, quần chúng nhân dân yêu nước của hai tỉnh Chợ Lớn-Tân An không tiếc máu xương, chấp nhận hy sinh vì cuộc khởi nghĩa. Cùng với các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Đô Lương (1-1940), cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23-11-1940) “là những tiếng súng báo hiệu cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”

Ngô Thành Trung

Các tin khác

  • Kỷ niệm 77 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11/6/1948-11/6/2025) (06/06/2025)
  • Kỷ niệm 114 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911-5/6/2025) (05/06/2025)
  • Hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới và Tháng hành động vì môi trường năm 2025 (05/06/2025)
  • Học tập đạo đức Hồ Chí Minh (19/05/2025)
  • Kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2025) (19/05/2025)
  • Cuộc đời sự nghiệp cách mạng của đồng chí Hoàng Quốc Việt (19/05/2025)
  • Tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam (06/01/1946 – 06/01/2026) (12/05/2025)
  • Kỷ niệm 84 năm Ngày Thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (15/5/1941 – 15/5/2025) (12/05/2025)
  • Kỷ niệm 66 năm Ngày mở đường Trường Sơn (19/5/1959-19/5/2025) (09/05/2025)
  • Đồng chí Phùng Chí Kiên – người cộng sản kiên trung mẫu mực, vị tướng đầu tiên của cách mạng Việt Nam (09/05/2025)
  • Trang đầu 12345678910 Trang cuối